Hoạt động BHTG là một dịch vụ cung cấp hàng hóa công mang tính xã hội cao, theo cách phân loại của các nhà kinh tế học sản phẩm dịch vụ của BHTG là loại hàng hóa công không thuần túy. Dựa vào tính chất không loại trừ hưởng thụ một cách tuyệt đối, do mục đích của dịch vụ BHTG là góp phần ổn định hoạt động của hệ thống tài chính quốc gia, người thụ hưởng dịch vụ BHTG là toàn xã hội.
Người gửi tiền thuộc đối tượng được bảo hiểm sẽ được hưởng lợi trực tiếp từ chính sách BHTG bằng việc tổ chức BHTG sẽ chi trả tiền khi mà ngân hàng nhận tiền gửi bị phá sản hay mất khả năng chi trả cho người gửi tiền thuộc đối tượng bảo hiểm. Như vậy tổ chức BHTG thực hiện hai chức năng cơ bản là: bảo vệ người gửi tiền và góp phần ổn định hệ thống tài chính hoạt động từ đó tạo hiệu ứng cho các ngành kinh tế phát triển thông qua các định chế trung gian tài chính cung cấp.
Tóm lại, chức năng hoạt động của bảo hiểm tiền gửi thực hiện các chức năng cơ bản như sau: Bảo vệ người gửi tiền nhỏ là những đối tượng có những hạn chế trong việc tiếp cận thông tin về hoạt động của tổ chức nhận tiền gửi. Chức năng phòng ngừa đổ vỡ ngân hàng, góp phần bảo vệ hệ thống tài chính ổn định tạo điều kiện cho các giao dịch tài chính. Góp phần xây dựng một thị trường tài chính có tính cạnh tranh và bình đẳng giữa các tổ chức tài chính có qui mô và trình độ khác nhau. Giảm thiểu gánh nặng cho Chính phủ, thông qua việc qui định những quyền lợi của người gửi tiền và của các tổ chức nhận tiền gửi.
Những nghiên cứu của các nhà kinh tế cũng như qua thực tiễn, người có tiền gửi nhỏ là được tổ chức BHTG quan tâm nhất và là cơ sở xuất phát điểm cho mục đích hoạt động của BHTG, đây là tầng lớp dân cư có những hạn chế nhất định trong việc tiếp cận những thông tin về hoạt động của tổ chức nhận tiền gửi, đời sống của tầng lớp công chúng có thu nhập thấp thường bị tác động nhiều hơn các đối tượng khách hàng khác, những người này thường quan tâm đến lãi suất tiền gửi và họ có được khoản tiền lãi từ nguồn tiền gửi ít ỏi của mình là hết sức quan trọng, do đó sự nhạy cảm trong những thông tin xấu của các tổ chức nhận tiền gửi là cực kỳ quan trọng, do hạn chế khả năng phân tích cũng nhưng tầm nhận thức, tâm lý bất ổn với những thông tin về đổ vỡ ngân hàng làm cho họ có những ứng xử theo tâm lý, từ đó rút tiền ồ ạt.
Ở Việt Nam ta bằng chứng là sự kiện của Ngân hàng TMCP Á Châu vào tháng 10/2003 là một minh chứng, các hiện tượng trên nếu không xử lý một cách khoa học có thể là nguyên nhân dẫn đến phản ứng dây chuyền làm hàng loạt ngân hàng bị phá sản, đây là một trong những nghiệp vụ mà tổ chức BHTG cần phải quán triệt.